Bùi Thụy Đào Nguyên

Công nữ Ngọc Vạn , ph.II



IV.Tạm lý giãi vì sao sử triều Nguyễn không nói đến Ngọc Vạn:


 -Bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, khi ghi chép về các con gái của Sãi Vương, đến mục “Ngọc Vạn”, “Ngọc Khoa”(sẽ có bài riêng) đã ghi rằng: “Khuyết truyện” tức thiếu truyện, nghĩa là không có tiểu sử.


 


-Trong “Généalogie des Nguyễn avant Gia Long” (Phổ hệ nhà Nguyễn trước Gia Long) của Tôn Thất Hân và Bùi Thanh Vân (Bulletin des Amis de vieux Huế, năm 1920) cũng ghi tương tợ :


 


“Ngọc Khoa con gái thứ của Sãi vương, không để lại dấu tích.
Ngọc Vạn con gái thứ của Sãi vương, không có dấu tích gì về Ngọc Vạn”


May thay, sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, ấn hành năm 1995 có biên chép đôi điều, nhờ vậy ta mới có những thông tin như sau :


Nội chiến Trịnh Nguyễn bùng nổ tại Bố Chánh năm 1627. Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên Theo chính sách nhà Trần, gả 2 con gái cho vua Chân Lạp & Chiêm Thành để việc ngoại giao được ổn định ở phía Nam, vì phiá Bắc phải đương đầu chống lại với Chúa Trịnh.


* Năm canh thân 1620 bà Ngọc Vạn được đức Hy Tông sãi vương gã cho vua Chân lạp là Chey Chetta 2.về sau nể tình bà. Vua Chân lạp cho người Việt lập dinh điền tại Mô xoài Bà riạ


* Năm tân mùi 1631 bà Ngọc Khoa được đức Hy tông gả cho vua Chiêm thành lá Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm tốt đẹp


Có nhiều ý kiến về việc không biên chép này, ở đây tôi xin được tóm gọn thành 2 ý :


 


-Vì công cuộc mưu sinh cho dân tộc, vì thế “môi hở răng lạnh” và cũng vì để theo dõi hoạt động của các nước chung quanh, nhất là sự thường xuyên xâm lấn của người  Xiêm La (ngườiTây phương cũng bắt đầu dòm ngó vùng Đông Nam Á), nên Sãi Vương không muốn làm ồn ào hai cuộc hôn nhân nầy, mà chỉ lặng lẽ tổ chức hôn lễ, nên sử quan nhà Nguyễn suy tính thấy không nên viết ra.


 


-Có thể vì ngày trước, nhiều vương triều Việt có cái nhìn hơi xem thường người Chiêm Thành, Chân Lạp. Do vậy, chuyện chẳng hay ho gì mà ầm ĩ, nhất là từ khi công chúa Huyền Trân đi vào sử sách với những giai thoại buồn tủi, với những vần thơ chua chát, mai mỉa như: “ Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho người mán, người Mường nó leo!”; có thể vì lẽ đó các sử quan được lệnh né tránh việc biên chép.


-Người soạn nghiêng theo ý đầu, vì xét thấy  ý sau chưa ổn lắm, bởi nhiều triều đại trước,việc nhà vua gả con cho vua chúa lân bang, cho những thủ lĩnh các châu miền xa xôi trong nước nhầm củng cố mối giao hảo, thế phiên giậu đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử


Như vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, Chiêm Thành. Năm 1286, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi đánh rất gấp, quân ta tan vỡ.Triều đình phải sai người đưa công chúa An Tư - em gái út của Thánh Tôn - đến cho Thoát Hoan để xoa dịu hắn.


Năm 1036, Lý Thái Tôn, gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu là Lê Tông Thuận, gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiên Lãm vv…


Thế nhưng sử sách không hề che giấu. ( ngay cả trong lịch sử  Trung Quốc việc tương tợ cũng đã xảy ra không ít lần, mà câu chuyện công chúa Văn Thành thời nhà Đường phải đến làm dâu xứ Tây Tạng, Vương Chiêu Quân thời nhà Hán phải chịu cống Hồ… là hai ví dụ điển hình).


Tuy nhiên để có câu trả lời thật thỏa đáng, thiết nghĩ ta  phải chờ Hội đồng Nguyễn Phúc tộc, các nhà sử học nghiên cứu thêm .


 


V.Người soạn xin góp ý về một trang viết trích trong quyển“Công Chúa Sứ Giả ’’của Huỳnh Văn Lang, do chính tác giả xuất bản tại California, năm 2004.


 


 Trích nguyên văn:


 Ngọc Vạn Công chúa sinh ở đâu và ngày nào, không sách sử nào nói. Nhưng người viết tìm lại những năm tháng liên hệ thì có thể cũng biết được phần nào. Ví như Công chúa đi lấy chồng là năm 1620, thì có thể nói là lúc bấy giờ Công chúa vào khoảng 16, 17 tuổi...


...Ngọc Vạn Công chúa ăn ở với Chey Chetta đã 17, 18 năm rồi, Công chúa có con với Chey Chetta không? Không thấy sử Chân Lạp, sử ta nói là Công  chúa có con với Chey Chetta II. Người viết luôn luôn thắc mắc tìm hiểu về vấn đề đó và thật là may mắn khi bắt gặp bài viết của Hương giang Thái văn Kiểm. Dựa theo sách " L'Indochine du Sud", của Cl. Madrolle, xuất bản năm 1926 tác giả đã viết như sau:


"Sau khi Chey Chetta mất, liền xảy ra việc tranh quyền giữa chú và cháu. Chú là Prea Outey, em ruột của Chei Chetta II, giữ chức Giám quốc (abjoréach) và cháu là Chau Ponhéa To, con của Chetta II và bà Công chúa Việt nam.


"Cháu Ponhéa To là một vị hoàng tử Miên-Việt rất thông minh và đã được giáo huấn rất chu đáo. Vua Chei Chetta khi còn sống định cưới cho hoàng tử nường Công chúa Ang Vodey. Nhưng chẳng may, khi ngài vừa mất thí Préa Outey, tức là chú ruột của hoàng tử, lại cưới nường công chúa Ang Vodey trong khi hoàng tử còn phải trường trai trong tu viện.


"Sau khi rời tu viện, Chau Ponhéa To lên ngôi Chân Lạp và trong một buổi tiếp tân trông thấy Ang Vodey liền đem lòng cảm mến và sau đó hai người cũng thương trộm nhớ thầm một cách tha thiết. Công chúa bèn trốn chồng bỏ nhà ra đi theo vua vào rừng săn bắn. Ông chú là Préa Outey biết được liền rượt theo và giết chết cả hai người".


Thật là họa vô đơn chí! Chồng chết, rồi con bị giết, thì người vợ người mẹ phải thế nào? Không biết Ngọc Vạn Công chúa phải đau khổ biết bao và còn cảm thấy bơ vơ ở xứ người.... "


Xin nêu điều nhầm lẫn : ngay phần đầu, tác giả đã xác định đúng thời điểm Ngọc Vạn đi lấy chồng là năm 1620 rồi ở đoạn sau, ông viết: Năm 1628 Vua Chey Chetta băng hà đang tuổi thanh xuân, chưa đầy 40.


Như vậy từ 1620- 1628, mới có 8 năm chung sống thì làm gì có đứa con nào của Ngọc Vạn đủ lớn để xảy ra thảm kịch trái khoáy ở chốn cung đình kia ? Vậy có thể quả quyết, vị hoàng tử vắn số này là con của một bà vợ Việt nào đó của vua Chey Chetta, mà ta chưa có điều kiện để tìm hiểu tận tường.


Vậy qua những dòng tư liệu ít oi vừa kể, ta biết chắc Ngọc Vạn có 1 người con trai. Và theo 2 tư liệu sau, ta biết bà có thêm 1 gái.


a.“Công chúa Ngọc Vạn”, tr 89-95, của Lương Văn Lựu trong sách Biên Hòa sử lược toàn biên ,q.II, do tác giả tự xb năm 1973:


“Đến năm 1624, bà lại sanh thêm một gái lấy tên là Néang Nhéa Ksattrey…”


 


b.Theo http://hue.vietnamnet.vn/chuyende/2005/12/117013/ :


Năm 1624 Ngọc Vạn  sinh hạ một hoàng nữ và sau khi chồng qua đời, vẫn ở lại để che chở, giúp đỡ đồng bào.


VI/ Bước đi… có vào lòng muôn dân?


Theo câu chuyện chia tách trên cùng vài truyền thuyết trong dân gian thì Ngọc Vạn về lại đất Việt sống cho đến cuối đời. (phần thuộc quyền cai quản của Nặc Ong Nộn ; và thành quách , cung điện của ông phó vương này ngày trước nằm trên vùng đất cao ráo từ đồi Cây Mai đến vùng Phú Thọ , Tp HCM hiện giờ)


Có thể khi bà mất, thân xác mà cả đời chỉ biết cống hiến, được hỏa thiêu theo phong tục nhà chồng ( người Chân Lạp chọn Phật Giáo tiểu thừa làm quốc giáo). Có thể rồi chút tro than kia cũng đã tản mát sau nhiều cơn binh lửa, nên bây giờ ta không thể tìm thấy dấu vết ?


Với lòng biết ơn của một người sinh sau đang sống bình yên, nơi mà bà & bao thế hệ cha ông đã dày công mới có được; khiến tôi day dứt khi đọc được câu: Năm 1624 Ngọc Vạn sinh hạ một hoàng nữ và sau khi chồng qua đời, vẫn ở lại để che chở, giúp đỡ đồng bào.


Ngẫm xưa nay, đâu phải ai sống trong cảnh son vàng đều có được tấm lòng ấy?. Bởi vậy, tôi đã nhờ Google để tìm xem người đời có lấy tên Ngọc Vạn để đặt tên cho đường phố, trường học hoặc nhà lưu niệm, tượng đài nào không; thì tôi chỉ gặp duy nhất một nơi liên quan đôi chút đến bà. Đấy là Chùa Gia Lào ở núi Chứa Chan, Đồng Nai.


 


Tương truyền chùa do công nữ Ngọc Vạn xây nên.Cũng có người bảo, đấy là do người dân thời bấy giờ tự quyên góp tiền của, để có nơi tưởng nhớ công ơn bà.


 


VII. Thay lời kết :


 


 Ngọc Vạn, người công nữ đức hạnh & xinh đẹp này, đã hai lần dẫn đường cho người Việt mở đất về phương nam. Lần thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620, lần thứ nhì trong cuộc tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658, thời trị vì của Batom Reacha Pontana Reja ( tức hoàng thân So, con Ngọc Vạn )


1/Nguyễn Lệ Hậu Phân viện chính trị HCM tại Đà Nẵng, đã có nhận định xác đáng như sau :


Việc giữ gìn biên cương và mở mang bờ cõi luôn là ước vọng lớn lao của hầu hết các đấng quân vương, và trong suốt thời gian trị vì của mình các bậc đế vương đã không ngừng khai thác bằng hầu hết những khả năng và biện pháp vốn có.


Ở đây, vấn đề hôn nhân nhằm mục đích chính trị đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc mở mang bờ cõi, nhất là trong công cuộc Nam tiến. Trong đó các cành vàng lá ngọc đã đóng một vai trò nhất định, nước mắt má hồng đã tô thắm cho từng dãi đất biên cương.”



2/Để ca ngợi công ơn  mở cõi to lớn của hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), một nhà thơ nổi tiếng vào thế kỷ trước có làm bài thơ sau:


Cảm Vịnh Hai Bà Ngọc Vạn, Ngọc Khoa


 


Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài
Nghìn xưa Trưng Triệu đã từng oai
Noi gương Khoa, Vạn, hai công chúa
Một sớm ra đi mở đất đai


 


Mối tình hữu nghị Việt Chiêm Miên
Thần xỉ mong sao được vững bền;
Chúa Sãi bao năm nhờ diệu kế,
Giữ miền Nam Á đặng bình yên.


 


Đời vốn quen dùng sức lửa binh,
Gây nhiều thảm họa khổ sinh linh.
Riêng đây ngọc lụa thay gươm giáo,
Trăm họ âu ca hưởng thái bình.


 


Cũng vì hạnh phúc của muôn dân
Vì nước, vì nhà, xá quản thân.
Lá ngọc cành vàng coi nhẹ bổng,
Hiếu trung cho trọn đủ mười phân.


 


Những tiếc riêng cho phận nữ hài,
Đem thân giúp nước há nhường trai.
Vắng trang lịch sử, nào ai biết?
Người đã hy sinh vị giống nòi.


 


Tới nay kể đã mấy tinh sương
Mượn bút quan hoài để biểu dương:
Bà Rịa, Phan Rang ngàn vạn dặm,
Công người rạng rỡ chốn quê hương.


 


Và một bài thơ của Tân Việt Điểu lấy trong sách Biên Hòa sử lược  của Lương Văn Lựu, Không thấy ghi tựa bài:


 


Ngọc Vạn, Ngọc Khoa giữ một niềm


Vì ai, tô điểm nước non tiên?


Chị lo giữ vẹn tình Miên Việt,


Em nhớ làm tròn nghĩa Việt Chiêm


Bà rịa, Biên Hòa thêm vạn dặm,


Phan Rang, Phan Rí mở hai miền


Non sông gấp mấy lần Ô, Lý


Nam tiến, công người chẳng dám quên.


 


 


-Ảnh trên: Chùa Gia Lào, núi Chứa Chan, Đồng Nai.


Theo Google : đấy là nơi duy nhất có liên quan đến Ngọc Vạn