Nhân đọc bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan


Về bài thơ  Qua Đèo Ngang:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá , đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ ( chợ ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

của bà Huyện Thanh Quan, hiện đã có nhiều bài viết về bài thơ nổi tiếng này. Vì vậy bài này chỉ có ý đến với khung cảnh của bài thơ , đến với hai điển tích "quốc quốc", "gia gia" và sau cùng là  bàn sơ qua chữ "rợ " hay "chợ" viết trong câu thứ tư của bài thơ.

Thời bà Huyện Thanh Quan là thời vua Minh Mạng. Bà Huyện đã từng là thầy dậy học trong hoàng cung. Thời đó, theo Đại Nam Nhất Thống Chí, Đèo Ngang thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình, ở phiá bắc. Bây giờ thì Đèo Ngang nằm trong huyện Kỳ An, huyện cuối cùng về phiá nam trong tỉnh Hà Tĩnh. Quảng Bình giáp giới phiá nam Hà Tĩnh, được ngăn đôi bởi dãy Hoành Sơn, cao khoảng 400 mét. Hoành có nghĩa là ngang. Dãy Hoành Sơn chắn ngang nước Việt, sừng sững không cho gió bấc thổi xuống, gió nồm thổi lên. Vì thế khí hậu Hà Tĩnh là khí hậu miền bắc và Quảng Bình thuộc khí hậu trong nam. Thông thương hai tỉnh nhờ có  Đèo Ngang.

Đèo Ngang cao 256 mét. Trên Đèo Ngang nhìn ra xa chỉ có núi đá và biển đông. Quảng Bình ở dưới thấp hơn Đèo Ngang. Trong tỉnh có con sông lớn tên là Roòn mà từ trên Đèo Ngang không nhìn thấy được. Vì lý do đó, nhiều người cho rằng bà Huyện Thanh Quan làm bài thơ này ở tỉnh Quảng Bình, dưới chân Đèo Ngang vì bà Huyện còn nhìn thấy "Lác dác bên sông rợ ( chợ ) mấy nhà ". Chính xác hơn, có ngươi ` còn luận rằng bà Huyện làm bài thơ trong chuyến đi từ Quảng Bình ra Hà Tĩnh vì bà "Bước tới " chứ không có "Bước xuống " Đèo Ngang.

Bà Huyện sống trong khung cảnh thanh bình. Tại sao lại "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc ", "Thương nhà mỏi miệng cái gia gia "? Qua hai câu này, chắc không phải bà Huyện đang diễn tả tâm trạng đất nước của mình mà có lẽ lúc đi qua Đèo Ngang, bà Huyện nghe được tiếng kêu của con chim cuốc và con chim đa đa nên nhớ lại tích xưa. Chữ "quốc' dùng trong câu thơ thứ năm là để đối với chữ "nước" . Chữ "gia dùng trong câu thơ thứ sáu là để đối với chữ "nhà". Lới đối này hiển nhiên không phải luật đối của thơ thời nhà Đường.

Bây giờ chúng ta đi vào điển tích chim cuốc và chim đa đa.

Chim cuốc, hay chim quốc quốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy, Thục Vũ hay Đỗ Vũ. Chim có mỏ dài và cong. Lưng chim màu xám, bụng trắng có một vệt đen. Thường sống trong bụi rậm. Mùa hè chim kêu rỉ rả ngày đêm. Có người cho rằng chim cuốc kêu nguyên đêm, sáng ra khan cổ, máu chảy ra khỏi miệng rồi chết.

Chuyện kể vua Đỗ Vũ nước Thục, yêu bà Biết Linh, vợ của một ông tướng dưới quyền. Vì thế bị ông tướng cướp mất ngôi vua. Đỗ Vũ phải trốn vào rừng, thương tiếc một sự nghiệp của thời vàng son, chết hoá thành con chim Đỗ Quyên. Bởi thế mới "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc ". Trong truyện Kiều, Nguyễn Du hỏi "Ấy hồn Thục đế  hay là  Đỗ Quyên" là tích này đây. Vì chim cuốc kêu vào mùa hè nên có thể bà Huyện viết bài thơ này vào mùa hè ở Đèo Ngang.

Cuối đời nhà Thương, vua Trụ tàn ác, hoang dâm vô độ, giết người không gớm tay. Khi Văn Vương là chư hầu vua Trụ mới từ trần, con lên nối ngôi là Vũ Vương. Vừa lên ngôi, thấy lòng người lầm than cực khổ than oán vua Trụ, Vũ Vương dấy binh đi dẹp Trụ. Nhiều người bỏ vua Trụ theo Vũ Vương, chẳng hạn Khương Tử Nha. Vua Trụ thua phải tự thiêu mà chết. Khi Vũ Vương dấy binh thì  có hai người là Bá Di, Thúc Tề cản Vũ Vương viện cớ cha mới mất mà can qua là bất hiếu, làm bầy tôi vua Trụ mà phản chúa là bất trung.

Vũ Vương trả lời rằng vua là bạo quân trừ đi sao gọi bất trung, cứu trăm họ khỏi lầm than để tiếng thơm cho cha ta sao gọi bất hiếu ? Nói rồi cất quân diệt nhà Trụ mà lập nên nhà Chu. Sau này ở ngoài Huế có từ "phản chủ đầu trâu" là lấy từ tích "phản Trụ đầu Châu" mà ra.

Khi Vũ Vương thay thế nhà Trụ thì Bá Di, Thúc Tề bỏ lên núi sống. Không ăn cơm, chỉ ăn rau và hoa quả vì nghĩ cơm gạo là của nhà Chu, mình đã không theo nên không ăn. Nhưng có người bảo với hai ông rằng đất này giờ của nhà Chu thì một cộng cỏ cũng của nhà Chu huống gì cây rau, hoa trái trên rừng trên núi. Hai ông cho là có lý nên nhịn ăn mà chết. Chết đi hoá thành hai con chim suốt ngày kêu " Bất thực túc Chu gia" , " Bất thực túc Chu gia", nghĩa là "Không ăn lúa nhà Chu". Kêu mãi sau líu lưỡi chỉ còn hai chữ "gia gia". Người đời đặt tên cho là chim đa đa. "Thương nhà mỏi miệng cái gia gia". Truyện Tam Quốc Chí kể lại chuyện Ngô vương là Tôn Quyền sai anh ruột của Khổng Minh là Gia Cát Cẩn sang Tây Thục dụ Khổng Minh về với Đông Ngô. Gia Cát Cẩn hỏi Khổng Minh: "Em còn nhớ chuyện Bá Di, Thúc Tề  không ? ". Khổng Minh trả lời :" Bá Di, Thúc Tề sống chết không rời nhau, anh với em đều là tôi nhà Hán, chi bằng rước anh về với Hoàng Thúc cho em được đêm ngày hầu hạ".   

Nhân bà Huyện nhắc đến chim. Ở ngoài trung,  hình như ở Quảng Nam hay Quảng Ngãi, có con chim Điều, sống ở trên cây, núi đá cao. Săn bắt rất cực khổ. Nhiều người bỏ mạng. Nhưng chim Điều có trong các vị thuốc loại Nhất Dạ Ngũ Giao của vua Minh Mạng nên hàng năm có lệ tiến cống chim Điều.  Khi biết chuyện săn bắn lầm than, bà Huyện có lần xin vua Minh Mạng cho bỏ lệ cống chim Điều và nhà vua đã nhậm lời tâu cho bỏ lệ này.

Có lần tôi đọc được trên Web một bài tả về nghề nghiệp đánh cá voi ở miền trung bình về chữ "vạn" và một bài viết của ông Phúc Trạch phê bình chữ "rợ" hay "chợ" trong câu thứ tư của bài thơ. Theo ông Phúc Trạch, chữ "rợ" hay "chợ" không chỉnh với chữ "Tiều" của câu ba. Nay nhớ mang máng xin được kể lại.

Nếu xét về luật bằng, trắc thì không có gì để nói nhưng chữ "Tiều" vừa để diễn tả một nghề nghiệp (hái củi), vừa để diễn tả một người (tiều phu). Vậy thì mang cái "chợ" hay cái "rợ" là mấy nóc gia của người miền cao nguyên thì không chỉnh. Lẽ đâu bà Huyện viết sai. Xét về nghề nghiệp của thời bà Huyện thì có thể kể đến Ngư, Tiều, Canh, Mục. Chữ Ngư và Canh không đối luật bằng trắc với chữ Tiều. Như vậy chỉ còn nghề Mục. Nhưng ở sát bên sông có ai đi chăn nuôi, làm mục đồng. Xét cho cùng ở sát bờ sông chỉ có nghề chài lưới. Có người đưa ra chữ Vạn. Chữ Vạn có rất nhiều nghĩa, là mười ngàn, là hàng ngàn, là một trong 32 đức tính của Đức Phật, v.v .... Ở miền Trung Việt Nam còn có nghĩa là làng đánh cá, nhà sàn trên sông, nghề đánh cá, ngư phủ . Người đứng đầu trong vạn là Vạn Trưởng. Thuyền bè của một vạn đều có phù hiệu riêng để người trong vạn còn biết mà hỗ trợ. Những định nghĩa này hiện có trong từ điển Việt Nam. Thời Minh Mạng, nhiều vạn đã được sắc phong của nhà vua . Hiện nay còn nhiều làng mạc có tên bắt đầu bằng chữ vạn như Vạn Thủy Tú, Vạn Nam Nghĩa, Vạn Thạch Long v.v....

Câu hỏi đặt ra là nguyên thủy phải chăng  bà Huyện đã viết:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông vạn mấy nhà

Đấy là mấy câu tôi viết tán gẫu để các bạn suy tư.

(tháng 7 2004, tháng 3 2006)

Phạm Vĩnh



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả