Đại cương về các thể thơ thường gặp (1)


Pham Doanh xin thu nhặt những điều học hỏi được để phổ biến về niêm luật thơ cho các thể loại sau đây:


- Đường Luật

- Lục Bát

- Song Thất Lục Bát

- Thất Ngôn Tứ Tuyệt

- Thất Ngôn Bát Cú

- Thơ tám chữ

- Thơ Haiku

- Thơ 4468, 4477

- Hát nói



Trước khi chúng ta đi vào từng thể thơ, ý kiến riêng của Pham Doanh về luật thơ là:


Chúng ta không nên có chủ trương làm thơ là phải theo luật. Cái chính là hồn thơ ý thơ lồng trong từ ngữ trong sáng, tạo hình và âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng và lưu loát. Vần luật là thứ yếu . Chỉ khi nào ta muốn làm theo thể loại nào thì nên biết cấu trúc và quy tắc về âm thanh vần điệu của thể đó. Còn không làm theo thể nào thì là thơ tự do .


Sở dĩ các niêm luật của các thể loại thơ được người làm thơ chú ý và hướng theo vì bản thân nó qua bao nhiêu đời đã có một nền tảng vững chắc về âm thanh vần điệu, làm định hướng cho những người mới làm thơ .


Nhưng các loại thơ nhiêu khê phát sinh từ Đường Luật, vốn đã chặt chẽ về hình thức và bố cục, lại còn bày vẽ thêm về các lối gò chữ khác như :


- đọc xuôi đọc ngược

- Câu cuối đoạn này làm câu đầu đoạn khác

- Hai chữ cuối một câu cuối làm đầu câu tiếp

- mỗi câu đều mang một con số

- cho 5 vần đặt ra trước để bài thơ phải xử dụng

- Mỗi câu phải chứa một địa danh


etc.


Tất cả những gò bó đó chỉ là acrobatics, là Sơn Đông Mãi Võ, chỉ cốt khoe chữ nghĩa, chứ không phải thơ theo cái tinh thần phóng khoáng của người có tâm hồn thơ .


Chúng ta nên biết luật nhất là những người mới làm thơ cần có orientation; luật là hình thức, là hướng dẫn để bài thơ ít ra có một khuôn khổ nhất định, có âm điệu căn bản.

Nhưng thà không đúng luật 100 phần trăm mà ý thơ, chữ dùng, âm điệu và vần hay còn hơn đúng luật mà ý thơ hạn chế, lời thơ ngây ngô, hoạt kê . Thí dụ như theo luật thơ Đường Luật, phải gò bó vào sự đối của bốn câu 3&4 và 5&6. Có những người làm thơ từ chương coi trọng sự đối từng chữ như giáo điều, họ có thể cho một bài có các câu như sau là bài thơ Đường Luật hay vì các câu đối thật chỉnh dù ý thơ và chữ dùng chẳng có gì đặc biệt .


...

Trước ngõ hai ông ngồi ngắm biển

Sau vườn ba cụ đứng xem non

Đã già vẫn tưởng chưa già lắm

Hết trẻ còn mơ mãi trẻ son

...



hay




...

Tôi đã ba mươi còn thích đẹp

Ông chưa sáu chục vẫn yêu đời

Cả làng dân bảo đồ say khướt

Nguyên xóm họ đồn lũ chịu chơi

...



Thí dụ hai câu đúng luật lục bát:



"Cô kia ngồi trước cửa nhà

Thấy xe nước mía từ xa đã cười"


Loại thơ này chỉ làm vè cho vui, nếu chỉ cần đúng luật thì không lẽ



"Thằng Tây nó giống cột đèn

Vừa cao vừa lớn, lại đen thùi lùi"


cũng là thơ chăng?


Nên hiểu ý thơ đẹp , chữ dùng hay và âm điệu trầm bổng là rượu còn luật thơ là bình. Cứ khăng khăng giữ đúng cái bình thật tròn trịa mà đựng rượu dở thì chẳng thà đựng rượu ngon trong một bình bẹp tí về hình thức còn hơn.


Biết luật mà không bị gò bó vào luật là hình thái cao của thơ.


__________________________________________________

Các Từ ngữ trong luật thơ


Hôm nay Pham Doanh xin phiếm đàm về các từ "Âm Thanh Vần Điệu"


1. Âm:

là gốc của một chữ sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ và các dấu . Như vậy âm bắt đầu bằng một hay nhiều nguyên âm và có thể kết thúc bằng một hay nhiều phụ âm.


Các chữ: Chương, Trương, Ngượng, Vưởng, Hướng đều có cùng một âm nhưng khác thanh.


2. Thanh: là sự khác nhau trong độ cao thấp của một âm.

Trong tiếng Việt các chữ có thể mang 6 thanh là không dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng chia làm hai nhóm có thanh bằng và thanh trắc.


Thanh bằng hay theo tiếng Hán Việt là Bình Thanh gồm các chữ không dấu và có dấu huyền như câu "chiều hôm qua em đi về" chỉ có toàn bình thanh.

Nếu cẩn thận hơn ta có thể chia thành Trung Bình Thanh (có nơi gọi là Thượng Bình Thanh) là các chữ không dấu, và Trầm Bình Thanh (hay Hạ Bình Thanh) gồm các chữ có dấu huyền.


Thanh trắc hay Trắc Thanh gồm các chữ có dấu sắc, hỏi , ngã và nặng. Như câu "Bữa trước chẳng có bão nặng" chỉ có toàn thanh trắc.

Sự phân biệt giữa Thượng Trắc Thanh: sắc, hỏi, ngã; và Hạ Trắc Thanh: nặng, không có gì quan trọng để đáng đi sâu vào .


3. Vần: Hai chữ được gọi là vần với nhau khi chúng có cùng âm và chung một nhóm thanh. Cụ thể là


"anh, đành, thanh, vành, mành" gọi là vần với nhau, cũng như


"đáng, nạng, mãng, đảng, đạng" vần với nhaụ



Thơ thí dụ


Ao ước từ xưa mãi đến giờ

Đông hành tìm kiếm chút nguồn thơ

Yêu hoa anh biết từ muôn kiếp

Hoa muộn vì ai cứ ngẩn ngơ


Nguyên Đỗ



Các chữ "giờ, thơ" và ngơ" trong câu 1,2,4 là vần với nhau vì cùng âm "ơ" và cùng là thanh bằng. ( Chữ "Chớ" tùy cùng âm mà khác nhóm thanh nên không vần với ba chữ trên).



4. Điệu

Ngoài "Âm", "Thanh" và "Vần" là 3 yếu tố chính của thơ "Vần" chúng ta còn để ý đến "Điệu" là sự trầm bỗng trong câu thợ Đây là cái mà không có luật nào giúp ta được, thí dụ trong thơ 7 chữ, luật chỉ đòi hỏi "Nhị tứ lục" phân minh, tức là các chữ 2,4,6 phải đúng bằng trắc, còn "Nhất tam ngũ bất luận", các chữ 1,3,5 tự do .

Nhưng chính cái tự do này là cái khó. Có bài đúng tất cả về luật bằng trắc nhưng đọc lên chẳng êm tai chút nào, như bài này Pham Doanh tự đặt ra làm thí dụ



Chiều nay chẳng biết vì sao buồn

Có phải tại trời mưa bão cuồng ?

Ngọn gió thổi ngang phía trước đó

Nước mưa làm ngập hai con đường



Bài này tuy đúng tuyệt đối về bằng trắc của Thất Ngôn Tứ Tuyệt nhưng đọc nghe ngang ngang chẳng êm tai chút nào . Nếu ta sửa lại như sau



Chiều nay không biết tại sao buồn

Có phải vì trời giông bão tuôn ?

Ngọn gió thổi ngang về phía trước

Nước mưa làm ngập cả con đường




Thì rõ ràng trầm bổng hơn nhờ dùng các chữ in đậm mà theo luật thì bằng hay trắc gì cũng được. (ở đây ta không để ý dến chữ hay ý thơ chẳng có gì)



Cũng như



Đôi ta chia cách tại trời

Nên em phải chịu một đời đau buồn


nghe ngang tai, được sửa lại thành


Đôi ta chia cách tại trời

Nên em phải chịu một đời đau thương



Tóm lại muốn có âm điệu hay nên đọc nhiều thơ người khác và thơ mình. Khi làm xong đừng bằng lòng với nó ngay mà nên đọc đi đọc lại, đọc ra thành tiếng luôn. Nếu nhờ ai biết ngâm thì càng tốt, xem âm điệu có êm tai, có du dương không, nhiều khi cùng là thanh trắc mà chữ dấu nặng đọc lên lại khắc với dấu sắc, v.v.


___________________________________________________


Liên vận, cách vận

Cước vận, yêu vận

Chính vận và Cưỡng vận



Vần điệu là hai yếu tố quan trọng của thơ . Thơ thì thường phải có vần. Các vần ở cuối câu gọi là cước vận, đa số các thể thơ trong mọi ngôn ngữ đều là cước vận.


Thơ Thí dụ:



Lắm lúc mài dao hỏi sắc không (?)

Lửa than cháy đỏ sợi tơ hồng

Hét lên một tiếng dừng tay. Ngộ

Thuyền vào đến bến chẳng qua sông


Vuong Tran


Sầu đông chi nữa hỡi sầu đông

Người đã xa xôi, cách biệt lòng

Đường chiều sợi nắng nằm thiêm thiếp

Ai đứng bên cầu ngơ ngác trông


Sầu đông



Vần ở các chữ cuối câu 1,2,4


Đặ biệt các thể thơ lục bát và song thất lục bát của Việt Nam ta lại có thêm vần ở giữa câu gọi là yêu vận.


Thí dụ:




Em ơi xin khóc một lần

Lệ rơi trôi hết duyên phần đổi thay

Trăm năm duyên nợ ai bày ?

Để em và chị buồn lây cuộc đời


Van Hac



Chữ lần cuối câu 1 vần với chữ phần ở giữa câu 2.




Trăng lên cao- thấp , trăng tà ?

Nhớ chưa có tuổi đã già nhớ thương ?

Nay , mai , mốt nọ … lẽ thường

Riêng tôi , đời bỗng ngưng dừng từ đây !


__________________

YVHT



Chữ tà cuối câu 1 vần với chữ già ở giữa câu 2.



Lại có hai loại vần, liên vận hoặc cách vận là hai câu đi liền nhau hoặc cách nhau có cùng một vần.


Thí dụ cho liên vận


Cảm ơn anh đã đến giữa cuộc đời

Cho em cả một bầu trời dịu ngọt

Cho bình minh chim mừng đua nhau hót

Cho nắng chiều thôi vàng vọt héo hon


Cảm ơn anh tô thắm chữ sắc son

Qua năm tháng không hao mòn, thay đổi

Tình anh cho, từng đêm em kê gối

Ru giấc nồng, đi vào cõi thiên thai


Gio Xuan



bắt đầu từ câu hai, các câu đi chung cặp 2,3 hay 4,5 ; 5,6 có cùng vần


Thí dụ cho cách vận



sáng hôm nay , tiếng chuông nào báo thức

ta giật mình, bật dậy , chực ra đi

lòng cứ tưởng sương, nắng nào thúc giục

thì ra mưa đang gõ, rất thầm thì


Nnguong


Bạn của nó, con bé gầy xơ xác

Thường ôm bao, nhặt bả mía bên đường

Mười lăm tuổi mà nhỏ còn đẹt ngắt

Mắt nhỏ buồn man mác những đau thương


Gio Xuan


___________________________________________


THĂM MỘ _tặng người tri kỉ


Con đường cũ chiều nay mưa ướt quá

Cỏ chẳng ai chăm lại mọc đầy

Minh quên hết nỗi buồn đời dối trá

Gió lạnh lùa giá rét đôi tay


Về lối cũ lòng ngập tràn nỗi nhớ

Mưa buồn cuối phố lại bay bay

Bạn biết đấy những nỗi buồn vô cớ

Kỉ niệm ùa về đọng lại đây


Mình đã quen trên con thuyền độc mộc

Kể từ ngày trần thế hết vấn vương

Nhưng làm sao bạn mỉm cười lên được

Khi họ nhìn mình ánh mắt xót thương


Câu thơ cũ vẫn vẳng lên mỗi tối

Một trí thức hênh hoang_một kiếp người

'Người bị đuổi khỏi thiên đường êm mát

Đó là tôi thưa thượng đế là tôi...'


Trời lạnh giá sương vờn ngôi mộ mới

Lại một lòng trinh bạch thác trần ư?

Nếu kkhông vướng những dây đời rắc rối

Mình nguyện chìm vào cõi vô hư


Nhưng dẫu nói thì cuộc đời vẫn thế

Chẳng thể thành môt kẻ chẳng ai sinh

Và tiếng thét dẫu rằng hơi nhỏ bé

Cũng phải từ một ý chí chiến chinh



Mưa Muộn




Câu 1 vần với câu 3, còn câu 2 vần với câu 4.




Chính vận là hai chữ hoàn toàn có cùng âm sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ, thí dụ



Những niềm vui quá đỗi mong manh

Ngày mong đợi đốt lòng anh giá lạnh

Bài thơ cũ bụi tràn thần thánh

Tiếng dương cầm long lanh long lanh


tranminhhien




Các chữ manh, lạnh, thánh, và lanh là chính vận .


Nhiều khi hai vần không được chỉnh lắm nhưng hai âm tương tự nhau thì gọi là cưỡng vận, thí dụ như "đường & vang (thay vì vương)", "nhài & hoài" "tay & đây" "cùng & hồng", hay "tình & thanh", "đêm & im", "đắng & nặn" v.v



Quê mình đầy những tài nguyên

Rừng sâu gỗ qúi: Quế, lim, hương, trầm

Non cao đá quí, mỏ than

Đồng bằng vựa lúa miền Nam nhất nhì


Phu Yen



Nguyên vần với lim, trầm vần với than, Nam.




đêm trăng cảm hóa tâm hiền

ngự trên tuyệt đẳng là em - thiên thần


Thien Nga


Hiền vần với em mà vẫn hay, nếu Thiên Nga vì chấp nê về luật mà đổi thành (thí dụ)



đêm trăng cảm hóa tâm hiền

ngự trên tuyệt đẳng là tiên -thiên thần



thì không hay bằng .


Dĩ nhiên chính vận thì tốt hơn, nhưng nếu gò bó vào chính vận mà bỏ một chữ thật hay, diễn đạt được một ý thật đẹp, vì chữ đó chỉ hao hao trong âm thanh thì cũng không nên. Trong trường hợp đó nên cân nhắc xem giữ chữ và ý hay giữ chính vận .



__________________________________________________

Chiều sâu của thơ ?


Thật ra mà khó định nghĩa thế nào là thơ có chiều sâu . Một trong những ý nghĩa của thơ là để diễn đạt một ý tưởng, một tâm tư, một rung động của người viết hay tạo một rung động, một suy tư cho người đọc.

Hình thái khác của thơ là để tả chân một cảnh một vật hoàn toàn khách quan mà không lồng vào ý nghĩa nào và cũng không tạo một suy ngẫm nào .


Ta có thể gọi hình thái thứ hai là không có chiều sâu, nhưng loại thơ này rất ít.

Bình thường người làm thơ ngay cả khi tả cảnh cũng muốn diễn dạt một cái gì.

Thơ là kết hợp của hình thức (âm, thanh, vần, điệu) và nội dung (ý tưởng, tiêu đề).

Bài thơ hay là đạt được sự hài hòa của hai khía cạnh đó.


Thơ có tâm tư, có chiều sâu mà không truyền đạt được qua hình thức bằng âm thanh vần điệu hay thì không làm người đọc cảm được tâm tư đó. Còn thơ không có chiều sâu thì phải rất hay về hình thức để có thể tạm gọi là thơ, trong trường hợp này thơ như là nhiếp ảnh hay hội họa, sự thành đạt hay không, hòan toàn nhờ kỹ thuật và chủ đề.

"Tác phẩm" nào không đạt được một trong hai khía cạnh đó thì không phải là thơ .


Thí dụ như



"Có hàng quán nhỏ góc đường

Những người lao động vẫn thường đến đây

Ngồi trong bóng mát vòm cây

Ly cà phê tỏa khói bay dật dờ

Đôi khi ngã một ván cờ

Gặp người ngang sức cả giờ chưa xong

Cho dù xuân hạ thu đông

Trên đường xe cộ hai dòng ngược xuôi".



Bài này PD cố ý làm để thí dụ cho thơ "không có chiều sâu", chẳng để lại một ấn tượng gì cho người đọc trừ vần điệu đúng quy luật.




"Ngôi hàng tiều tụy bên đường

Nơi người bán dạo vẫn thường nghỉ chân

Cả ngày vất vả tảo tần

Gánh hàng còn nặng, nợ nần chưa vơi

Đổ bao nước mắt mồ hôi

Mà sao chẳng hết một đời long đong

Ngày qua nắng hạ mưa đông

Đôi quang gánh nặng cho còng tấm thân".




Khi chuyển sang version thứ nhì, bài thơ đã có chút chiều sâu, không mang tính cách bàng quang; nhưng về hình thức thì chỉ tạm được thôi vì bài thơ cố ý làm chứ không phải từ một xúc cảm.


Bài thứ ba thì khác hẳn



"Tôi nhìn bóng, bóng nhìn tôi

Nhìn lâu thấy lạ lại thôi không nhìn

Như tôi

bóng cũng im lìm

Như tôi

bóng cũng đang tìm kiếm tôi".



Bài này chỉ mượn câu đầu làm khung cảnh để dẫn vào một tâm trạng.


Nói tóm lại thơ hay như một thiếu nữ được cả về dung mạo và tâm hồn.


- còn tiếp -


Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả